Hộ giáo
Đời sau có hay không?
Nhân loại đã đưa ra sáu
luận chứng căn bản về những gì sẽ xảy đến cho chúng ta khi chúng ta chết:
1. Chủ nghĩa duy vật: Không có gì tiếp tục tồn tại; cái chết chấm dứt
mọi thứ của tôi. Điều này hiếm được chấp nhận vào khoảng thời gian trước thế kỷ
XVIII, tuy nhiên ngày nay chủ nghĩa duy vật là một quan điểm tuy nhỏ mà mạnh mẽ
trong các quốc gia đã được công nghiệp hóa. Nó là một sản phẩm đính kèm mang
tính tự nhiên của chủ thuyết vô thần.
2. Chủ thuyết ngoại giáo: một nửa con người mờ ảo hay một bóng ma vẫn
còn sống và đi đến một nơi chết chóc, Địa ngục tối tăm, ảm đạm.
3. Thuyết đầu thai: Linh hồn của một người vẫn sống sau khi chết và
được tái nhập vào trong một thể xác khác.
4. Thuyết phiếm thần: Cái chết chẳng thay đổi gì cả, những gì tồn tại
sau khi chết cũng giống như những gì có thực trước khi nó chết: chỉ là một, một
Thực Tại không thay đổi, vĩnh hằng, hoàn hảo, tinh thần, thần thiêng, có tính
bao hàm, và thỉnh thoảng được gọi với cái tên “Brahman” và thỉnh thoảng không
được gọi như thế (như trong Phật giáo).
5. Thuyết linh hồn bất tử: Linh hồn của mỗi người vẫn sống sau khi
người ấy chết, nhưng thể xác thì không.
6. Thuyết phục sinh: Khi chết, linh hồn tách lìa khỏi thể xác và được
tái hiệp nhất với chính thân xác đã được làm mới, đã được phục sinh, bất tử vào
ngày cánh chung nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là quan điểm của Kitô
Giáo. Sự phục sinh siêu nhiên của thể xác hơn là chỉ nói về bản tính bất tử vốn
có của chỉ linh hồn, quan điểm là chính quan điểm về đời sống sau khi chết
trong Kinh Thánh. Quan điểm này vốn đã được tiên báo và hi vọng một cách mơ
hồ trong Cựu Ước, nhưng đã được mặc khải rõ ràng trong Tân Ước. Cả hai
quan điểm 5 và 6 đều đề cập đến việc linh hồn vẫn sống sau khi thể xác chết đi.
Đây là điểm mà chúng ta sẽ chứng minh.
Luận chứng về tính đơn
nhất của linh hồn
Đại tiền đề: Cái gì không được gộp
lại thì không thể bị tách rời. Bất cứ thứ gì được gộp lại từ những phần khác
nhau thì có thể được tách ra thành những phần khác nhau: một phân tử được tách
ra thành những nguyên tử, một tế bào được tách thành những phân tử, một cơ phận
có thể được tách ra thành những tế bào, một thân thể có thể được tách ra thành
những bộ phận, một con người có thể được tách ra thành linh hồn và thể xác.
Điều gì không thể được cấu nên từ các phần thì không thể được tách ra thành
những phần khác nhau.
Tiểu tiền đề: Linh hồn thì không phải
được cấu nên từ các bộ phận. Không như thể xác, nó không có những bộ phận có
thể đếm hay đo lường được. Bạn có thể cắt thể xác ra làm đôi nhưng không thể
làm được như thế đối với linh hồn; bạn không thể có một nửa linh hồn. Bạn không
thể cắt ra được một tí của linh hồn khi cắt tóc.
Kết luận: Vậy linh hồn thì không
thể bị chia tách.
Chỉ có hai cách bị hủy
diệt đi: bị chia tách thành từng phần, như trường hợp của thể xác, hoặc bị hủy
diệt hoàn toàn nguyên trong một tổng thể. Nhưng chúng ta biết rằng không gì lại
bị hủy diệt xét như là một tổng thể. Không gì lại tự dưng đi vào hiện hữu. Nếu
linh hồn không chết cả trong các bộ phận (bởi sự chia tách) lẫn trong trường
hợp một thể xác nguyên vẹn (bởi sự hủy diệt), thì linh hồn không thể chết.
Luận chứng về việc năng
lực linh hồn dẫn dắt thể xác.
Đại tiền đề: Giả sử năng lực của
linh hồn không đến từ thân xác, điều này cho thấy rằng linh hồn không là một
phần hay là một chức năng của thân xác. Đến lượt nó, điều này cũng chỉ ra rằng
linh hồn không phụ thuộc vào những quy luật của thân xác, bao gồm cả cái chết.
Tiểu tiền đề: Một năng lực như thế
của linh hồn hiện hữu thì không đến từ thân xác. Chính nó là năng lực làm cho
thể xác hiện diện. Thể xác không thể hiện diện bởi chính nó, không thể là đối
tượng nhận thức của chính nó, không thể biết về chính mình. Để cụ thể hóa X,
tôi phải hơn X. Tôi có thể biết một hòn đá như là một vật thể chỉ vì tôi không
chỉ là một hòn đá xét như là một vật thể. Một cái máy chiếu có thể phóng
chiếu các hình ảnh lên màn hình chỉ vì nó không là một hình ảnh. Tôi có thể nhớ
quá khứ của mình chỉ vì tôi vượt trên nó; tôi là một con người hiểu biết trong
hiện tại. (Hiện tại của tôi thì sống động, quá khứ của tôi đã chết rồi). Tôi có
thể biết thể xác của tôi là một vật thể chỉ vì tôi vượt trên thể xác của mình.
Chủ thể nhận biết phải vượt trên đối tượng đựợc nhận biết.
Kết luận: Do thế, linh hồn không
tùy thuộc vào tính phải chết của thể xác.
Luận chứng về hai hoạt
động phi vật chất.
Đại tiền đề: Nếu tôi thực hiện những
hoạt động mà trong đó thân xác không đóng một vai trò quan trọng hay thiết yếu
nào, thì đấy không phải là những hoạt động trên thân xác, vì lẽ đó, tôi vượt
trên thân xác mình; tôi cũng có một linh hồn phi vật chất (nó không chết khi
thân xác chết đi).
Tiểu tiền đề: Hai hoạt động này là
(1) suy nghĩ, phân biệt khỏi những cảm giác bên ngoài và những cảm giác bên
trong (sự tưởng tượng) và (2) ý chí có suy xét, hữu lý và trách nhiệm, phân
biệt khỏi ý thích theo bản năng, khát vọng hay cảm giác.
Kết luận: Tôi có một linh hồn phi
vật chất và bất tử.
Chứng minh (1): Nhờ nội
quan, ta có thể biết rằng suy nghĩ của chúng ta không bị giới hạn vào những hình
ảnh, ví như những hình chóp, nhưng cũng có thể hiểu những nét bản chất và những
quy tắc trừu tượng, phi vật chất và phổ quát, ví như tính tam giác và lượng
giác học. Chúng ta không thể tưởng tượng ra được sự khác biệt giữa một hình có
103 cạnh và một hình có 104 cạnh như khi chúng ta hình dung sự khác biệt giữa
một hình có 3 cạnh và một hình có 4 cạnh; nhưng chúng ta có thể hiểu sự khác
biệt giữa một hình có 103 cạnh và một hình có 104 cạnh, cho dù chúng ta không
thể tưởng tượng ra nó. Do thế, sự hiểu biết của chúng ta thì trổi vượt trên sự
tưởng tượng của chúng ta.
Chứng minh (2): Nếu ý
chí chỉ là khát vọng mang tính bản năng, sẽ có hai kết luận ngờ nghêch theo
sau: (a) Chẳng ai trong chúng ta tự do và kiểm soát được ý chí của mình, do
thế, chẳng ai trong chúng ta sẽ chịu trách nhiệm cho chọn lựa của mình, tất cả
lời tán dương, lời khiển trách và trách nhiệm sẽ là viển vông, (b) Nếu
trong chúng ta chỉ có bản năng mà không có ý chí, thì bản năng mạnh nhất sẽ
luôn luôn thắng. Nhưng điều này không đúng, vì tôi có thể và thỉnh thoảng tôi
chọn điều trái ngược với bản năng mạnh nhất của mình (ví dụ khi tôi chọn để
theo bản năng yếu hơn là thương cảm thay vì theo bản năng mạnh hơn là sợ và tự
bảo toàn trong việc sẵn sàng giúp một nạn nhân đang sắp chết đuối hay đang bị
trấn lột.)
Luận chứng tự mâu thuẫn
của người chống chủ nghĩa duy vật.
Một máy tính thì không
đáng tin nếu nó đã được lập trình một cách tình cờ chứ không theo một thiết kế
hữu lý (ví dụ, do bởi một cục mưa đá tình cờ rơi trên bàn phím của nó.)
Bộ não con người và hệ
thống thần kinh của nó là một chiếc máy tính. Chúng có thể hơn cả một chiếc máy
tính, nhưng cũng có thể không bằng một chiếc máy tính. Do thế, bộ não con người
sẽ không đáng tin cậy nếu nó chỉ được lập trình cách tình cớ.
Nhưng nếu chủ nghĩa duy
vật là đúng, nếu linh hồn chỉ là bộ não, nếu chẳng có tinh thần, chẳng có linh
hồn con người và Thiên Chúa, thì bộ não con ngươi đã đơn thuần được lập trình
cách tình cờ. Mọi chương trình mà bộ não của chúng ta đã nhận được ngang qua di
truyền (di truyền học) và môi trường (xã hội), thì chung cục chỉ là sự tình cờ
ngu muội, tuỳ tiện, ngẫu nhiên, những sự kiên thô kệch, những nguyên nhân thuần
vật chất , không có những lý do hợp luận lý.
Do thế, chủ nghĩa duy
vật không thể đúng. Chủ nghĩa ấy phản bác chính mình. Nó huỷ diệt tính khả tín
của mình. Nếu bộ não chẳng có gì ngoại trừ những nguyên tử không nhìn thấy,
chúng ta chẳng có lý do gì để tin nó khi nó mách bảo cho chúng ta về bất cứ
điều gì, gồm cả chính nó và các nguyên tử. Do thế, nếu ở đây chẳng có gì ngoại
trừ những nguyên tử, chúng ta chẳng có lý do gì để tin rằng ở đây chẳng có gì
ngoại trừ những phân tử.
Nếu chủ nghĩa duy vật
không đúng, điều này nghĩa là có một thực thể phi vật chất hiện hữu. Và thực
tại phi vật chất ấy – thường được gọi là tinh thần hay linh hồn – không cần tuỳ
thuộc vào những quy luật của thực tại vật chất, gồm cả quy luật phải chết.
Luận chứng từ sự Công
bình Tối hậu.
Vì sự công bình thường
không được thực hiện trong một hành trình vắn vỏi của đời người trên trái đất,
hoặc (1) sự công bình phải được thực hiện trong một hành trình dài – trong
trường hợp này phải có một “hành trình dài”, một đời sống sau cái chết – hoặc
một cái gì đó khác (2). Đòi hỏi thiết yếu mà này cho chúng ta biết ý nghĩa luân
lý và công bình tối hậu thì không được đáp ứng bởi thực tại nhưng chỉ là một sự
tránh né mang tính chủ quan của tâm lý con người – trong trường hợp đó, sẽ
chẳng có một nền tảng nào trong thực tại thỏa mãn những khuynh chiều luân lý
sâu xa nhất của chúng ta, không có môt hiệu lực khách quan hay sự biện minh cho
công bình. Mệnh đề “Tôi muốn công bình” chỉ nói vài điều về chúng ta, giống như
“Tôi cảm thấy muốn ốm,” không phải về thực tại khách quan, không phải điều thực
sự là hay điều thực sự nên là.
Luận chứng này không
minh chứng được đời sau một cách đơn giản và hoàn toàn, nhưng nó cho thấy cái
giá nào phải trả cho việc từ chối nó: cái giá về tầm quan trọng mang tính luân
lý. Một khi chúng ta không còn tin rằng giá trị luân lý có một cơ sở trong thực
tại khách quan, một khi chúng ta bắt đầu tin rằng giá trị luân lý không gì hơn
là những cảm xúc và ước muốn chủ quan, một khi chúng ta giảm thiểu công bình từ
một định luật của vũ trụ xuống một sở thích riêng tư, chúng ta không còn xem nó
như một sự bó buộc hay phải sợ hãi, để rồi không tuân theo nó khi nó mang lại
bất tiện. Như Dostoyevsky ghi chú, “Nếu không có sự bất tử, mọi thứ đều được
cho phép.”
Cuộc đánh cược của
Pascal
Đối với Pascal, cuộc
đánh cược là một luận chứng về việc tin vào Thiên Chúa. Nó cũng có thể được sử
dụng như là một luận chứng cho việc tin vào đời sau.
Đối với những người có
khuynh hướng ngờ vực, những luận chứng dựa trên sự kiện chúng ta không biết điều
gì – những luận chứng từ sự vô tri – thì thuyết phục hơn những luận chứng dựa
trên những kiến thức giả định, điều mà người hoài nghi có thể đặt vấn đề.
Ví dụ, đối với một người hoài nghi như thế, thì một luận chứng chống lại việc
phá thai khởi đi từ sự kiện bạn không thể đoan chắc rằng bào thai không phải là
một con người thì mạnh hơn luận chứng khởi đi từ tiền đề chúng ta biết chắc
rằng bào thai là một con người.
Luận chứng “đánh cược”
không chứng minh rằng có sự tồn tại của đời sau, nó chỉ chứng minh rằng thật
ngu ngốc khi không tin vào đời sau.
Nếu lời tuyên bố của
người Kitô giáo là đúng, thì cơ hội duy nhất để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu là
phải tin. “Bất cứ ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Có lẽ điều ấy sai –
nhưng cũng có thể đúng. Thật ngớ ngẩn nếu lờ đi khả thể thứ hai. “Vì ích lợi gì
nếu một người đạt được cả thế gian mà mất linh hồn?” (Mc 8,36).
Luận chứng từ Seknsucht
(Ước muốn mãnh liệt)
Đại tiền đề: Mọi ước muốn tự nhiên
bẩm sinh ở trong chúng ta – khác biệt với ước muốn có điều kiện hay tự tạo –
tương ứng với một đối tượng thực sự có thể đáp ứng mong muốn đó. Nếu đói, thì
có thực phẩm; nếu khát, thì uống; nếu ham muốn tình dục, thì có giới tính; nếu
tò mò muốn biết, thì có kiến thức, nếu cô đơn, thì có xã hội. Thật là điều hết
sức lạ lùng nếu chúng ta thấy những sinh vật đang yêu trong một thế giới không
có giới tính.
Tiểu tiền đề: Trong chúng ta có một
ước muốn mà không có gì trong cuộc sống này có thể đáp ứng được, một ước muốn
mãnh liệt (Sehnsucht) khác với tất cả những ước muốn khác trong đó đối tượng
của nó là không thể định nghĩa được và không thể đạt trong cuộc đời này.
Mặc dù chúng ta không
hiểu rõ chính xác điều chúng ta muốn là gì, trong thực tế tự bản chất mọi người
chúng ta đều mong muốn một cõi cực lạc, một thiên đường, vĩnh cửu, một đời sống
thần thiêng. Thánh Âu Tinh nói, “Trái tim của chúng ta bồn chồn khắc khoải cho
đến khi tìm nghỉ ngơi trong Ngài” – ngay cả khi chúng ta không biết “Ngài” đây
là ai hoặc cái gì”. Một cái gì đó sâu thẳm trong linh hồn của chúng ta không
được thỏa mãn trong cả thế giới thời gian và phải chết này.
Kết luận: Vì thế, đời sống vĩnh
cửu tồn tại.
Nại một điều gì cho
thấy rằng phải có một sự thay thế, một điều gì đó nhiều hơn và tốt hơn. Chúng
ta không phàn nàn về sự hiện hữu, hoặc về 2 + 2 = 4. Nhưng chúng ta phàn nàn về
đau khổ, sự thiếu hiểu biết và nghèo đói. Chúng ta cũng phàn nàn về thời gian,
bao giờ đủ thời gian, ngay cả bây giờ, và chắc chắn khi chúng ta hấp hối. Chúng
ta muốn nhiều thời gian hơn; chúng ta muốn sự vĩnh hằng. Vì vậy phải có
sự vĩnh hằng. Chúng ta phàn nàn về thế giới này. Nó không bao giờ là đủ tốt. Vì
vậy phải có một thế giới khác đủ tốt. Chúng ta không thể đạt được nó, cũng
giống như chúng ta có thể chết vì đói. Nhưng sự khát mong bẩm sinh về thế giới
đó chứng minh rằng nó tồn tại, giống như sự đói khát bẩm sinh về thực phẩm
chứng minh rằng thực phẩm tồn tại.
Luận chứng từ Tình Yêu
Luận chứng từ tình yêu,
được khởi hứng bởi Gabriel Marcel, thì ít “chặt chẽ”, nhưng sâu xa hơn so với
hầu hết những luận chứng khác, nó phụ thuộc nhiều vào một “cuộc gặp gỡ” hơn về
sự bó buộc luận lý nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nó có thể được thiết lập một cách
logic như sau.
1. Tình yêu ở đây có
nghĩa là agape, không là eros; tình yêu trao ban, chứ không phải tình yêu đòi
hỏi, tình yêu vì người khác nhau, chứ không phải tình yêu vì lạc thú.
2. Tình yêu này thì
không mù quáng. Nó có đôi mắt. “Con tim có lý lẽ của nó.” Tất cả chúng ta đều
biết điều này theo bản năng, vì nếu chúng ta được hỏi rằng ai là người hiểu
biết chúng ta nhất, một người kém thông minh yêu thương chúng ta nhiều hơn hay
một người thông minh yêu thương chúng ta ít hơn, chúng ta đều biết rằng người
yêu thương chúng ta nhất thì biết chúng ta nhất. Eros có thể mù quáng, nhưng
agape thì đối nghịch lại sự mù quáng. Làm thế nào tình yêu có thể mù quáng nếu
Thiên Chúa là tình yêu? Thiên Chúa thì không mù quáng!
3. Điều mà tình yêu
thấy chính là giá trị nội tại của người yêu. Nếu tôi không yêu bạn, tôi thấy
bạn như là một trong nhiều đối tượng trong thế giới của tôi – một điều gì đó có
thể thay thế, như một cầu thủ bóng chày hay một diễn viên. Giá trị của bạn là
khả năng của bạn thực hiện những chức năng nào đó, mà những người khác
cũng có thể thực hiện, vì vậy bạn không phải là không thể thiếu. Nhưng một điều
mà không ai có thể làm được là trở nên bạn. Tôi biết sự tất yếu của bạn chỉ khi
tôi yêu bạn vì lợi ích của riêng bạn, không vì lợi ích của tôi hoặc vì lợi ích
mục đích của bạn.
4. Trên cơ sở này, bây
giờ tôi có thể lập luận rằng điều không thể chấp nhận được về mặt luân lý
là: điều không thể thiếu lại thiếu, điều không thay thế lại bị thay thế.
5. Tại sao tình trạng
không thể chấp nhận được về mặt luân lý này lại không có thể là thật được ? Bởi
vì nếu nó là thật, thì thực tại – tối hậu, thực tại phổ quát và mang tính hoàn
vũ – rốt cục sẽ làm cho tất cả mọi người những gì là không thể chấp nhận được
về mặt luân lý, những gì chúng ta không bao giờ nên làm, trong trường hợp đó,
giá trị của chúng ta sẽ không có mặt trong thực tại.
6. Vì vậy, hoặc là giá
trị luân lý là không có căn cứ, hoặc con người không phải bị loại trừ nhưng
sống mãi mãi. Con mắt của cái chết có vẻ như để nhìn thấy phần khuất của tình
yêu, nhưng con mắt của tình yêu nhìn thấy phần khuất của cái chết. Do đó CS
Lewis có thể viết những lời đáng lưu tâm trên mộ chí của người bạn Charles
Wiliams mình như sau: “Không có sự kiện nào chứng thực niềm tin của tôi về đời
sau như Charles Williams đã làm đơn giản chỉ bằng chết. Vì khi ý tưởng về cái
chết và ý tưởng của Williams gặp nhau trong tâm trí của tôi, đó là ý tưởng của
cái chết đã được thay đổi. “
Điểm yếu của luận chứng
này là sự yếu đuối của chính tình yêu: nó tự do, không phải là một sự ép buộc.
Nếu bạn không chọn để yêu, thì bạn sẽ không gặp gỡ. Nhưng nếu bạn thực sự muốn
biết, bạn có thể thực hiện các thử nghiệm thích hợp. Con đường đến sự chắc chắn
về sự bất tử có thể là một thử nghiệm tích cực, không chỉ là một suy nghĩ, và
điều này có thể là nhiều hơn, chứ không ít hơn, thuyết phục hơn bất kỳ luận
chứng lý thuyết nào. Như nhân vật Cha Zossima của tác giả Dostoyevsky nói trong
tác phẩm Anh em nhà Karamazov với “người phụ nữ kém đức tin” là người
thắc mắc làm thế nào để lấy lại niềm tin của cô bị mất về sự bất tử, “Theo mức
độ bạn tiến tới trong tình yêu, bạn sẽ chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên
Chúa và về sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được kiểm nghiệm. Điều này là
chắc chắn.” Con đường này được dành cho mọi người tìm kiếm chân thành với lời
hứa rằng nếu họ thực sự tìm kiếm nó họ chắc chắn sẽ thấy.
Luận chứng từ Phục sinh
của Chúa Kitô
Điều gì sẽ là bằng
chứng thuyết phục nhất cho sự sống đời sau? Những người hoài nghi có lẽ sẽ trả
lời: Chỉ khi chúng ta có thể nhìn thấy và đụng chạm một người chết, người đã
sống lại và tỏ mình ra cho chúng ta, chúng ta mới có thể hoàn toàn chắc chắn.
Một người chết đã sống
lại và hiện ra cho nhiều người trên trái đất này. Chúa Kitô phục sinh đã được
nhìn thấy và được đụng chạm (1 Ga 1:1-3). Người Kitô hữu được đảm bảo cuộc sống
đời sau trước hết không phải thông qua các luận chứng, nhưng thông qua các nhân
chứng. Giáo Hội là chuỗi của các nhân chứng, bắt đầu với các tông đồ.
Vì thế câu trả lời của
người Kitô hữu cho câu hỏi đáng nghi ngờ nhất, “Bạn thực sự biết điều gì về
cuộc sống sau khi chết? Bạn có bao giờ ở đó chưa? Bạn trở lại để nói cho chúng
tôi hay chứ?” là “Không, nhưng tôi có một người bạn rất tốt, người đã làm như
thế.”
Tác giả: Peter Kreeft, Ronald K. Tacelli
(dongten.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét